Kinh tế Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai

Nông nghiệp

Đồ sắt phát triển giúp cho năng suất trồng trọt tăng nhanh và đời sống tương đối no đủ[7]. Các công trình thủy lợi như đắp đê sông và đê biển được tiến hành bên cạnh một số kênh ngòi được đào phục vụ cho nông nghiệp.

Người Việt bắt đầu biết áp dụng thâm canh tăng năng suất. Trải qua quá trình tăng vụ, chuyển vụ, người Việt đã biết trồng lúa 2 mùa trong 1 năm từ rất sớm. Các sách sử Trung Quốc thời kỳ này đều gọi lúa chín 2 mùa là lúa Giao Chỉ[8]

Sản xuất nông nghiệp phát triển tốt nhưng đồng thời sản phẩm của người bản địa cũng bị các triều đình phương Bắc vơ vét qua tô thuế nặng nề. Lượng thuế nông nghiệp mà nhà Hán thu từ đây là 13,6 triệu hộc, nhiều hơn so với những vùng như Mân, Quảng, Điền, Kiềm[8].

Thủ công nghiệp

Các nghề chính thời kỳ này là rèn sắt, đúc đồng để làm dụng cụ lao động, đồ dùng gia đình (bình, đỉnh, chậu, bát, chén, đĩa…) và vũ khí (kiếm, dao, kích, lao, mũi tên...)

Nghề gốm phát triển trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật từ Trung Quốc. Sản phẩm có đồ dùng thường ngày như bát, chén, đĩa, nậm, mâm, khay, nồi, chõ… hay đồ thờ như đỉnh, đèn, bình hương, thìa, đũa sành) và tượng thú. Người Việt còn được tiếp thu nghề làm giấy của Trung Quốc và nghề làm chế tạo thủy tinh từ Ấn Độ và phương Nam truyền tới.

Nghề làm gạch ngói phục vụ các công trình kiến trúc như thành quách, chùa tháp, mộ táng. Hai nghề phụ phổ biến nhất là nghề dệt và đan lát. Các loại vải đều được nhuộm thành nhiều màu khác nhau.

Người Việt biết dùng mía nấu mật làm đường, gọi là thạch mật. Lúc đó người Trung Quốc chưa biết làm đường bằng mía nên thạch mật của Giao châu trở thành cống phẩm quý cho triều đình nhà Hán.

Bên cạnh đó, những ngành thủ công nghiệp khác cũng phát triển như mộc, sơn then, thuộc da, nấu rượu, làm đồ đá…

Sự phát triển thủ công nghiệp của Việt Nam thời kỳ này cũng bị kìm hãm do tác động của các triều đại cai trị phương Bắc. Họ bắt nhiều thợ thủ công giỏi về phục vụ xây dựng tại kinh đô khiến lực lượng sản xuất nghề này bị ảnh hưởng nhiều[9].

Thương mại

Ngoài hệ thống sông ngòi tự nhiên, hệ thống đường sá hình thành qua nhiều năm cũng góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại. Các thư tịch cổ Trung Quốc nói rằng các nước phương Nam và phương Tây muốn đến Trung Quốc đều phải đi theo con đường Giao Chỉ.[10] Từ thời Nhà Hán, thuyền buôn các nước Java, Myanma, Ấn Độ, Parthia (Ba Tư), La Mã đều qua Giao Chỉ và coi đây như là một trạm dừng chân quan trọng để đến Trung Quốc. Sang thời Nam Bắc triều, thuyền các nước này và các tiểu quốc bờ biển Sumatra, Sri Lanka… đều qua lại buôn bán với các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.

Theo ghi chép của Hậu Hán thư, Vương quốc Parthia mua tơ lụa từ đất nhà Hán bán lại cho La Mã lãi rất cao. Triều đình La Mã muốn sai sứ giao thương với triều đình nhà Hán nhưng Parthia cố ngăn trở không cho La Mã tiếp cận để mua hàng trực tiếp của Hán. Năm 166, dưới triều vua Hán Hoàn Đế, Hoàng đế La Mã là Marcus Aurelius Antoninus sai sứ theo đường từ Nhật Nam đến dâng ngà voi, sừng , đồi mồi cho nhà Hán để đặt quan hệ. Đó là lần đầu tiên La Mã thông với Trung Quốc, qua quận Nhật Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay.[11]

Việc buôn bán ở Giao Châu hầu hết do người Hoa khống chế. Các triều đại Trung Quốc cũng có chính sách đánh thuế thương mại với các tàu thuyền buôn của nước ngoài rất nặng.[12]